Thách thức đối với lao động nông thôn có thể được chuyển đổi thành cơ hội. Việc này có thể được thực hiện bằng cách cung cấp đào tạo và hỗ trợ nghề nghiệp cho lao động nông thôn, đồng thời khuyến khích sự đổi mới và ứng dụng công nghệ trong ngành nông nghiệp. Bằng cách thúc đẩy của chính phủ và các tổ chức hỗ trợ, nông dân nông thôn có thể tận dụng thị trường và xây dựng kinh doanh nông nghiệp bền vững. Điều này sẽ giúp tăng trưởng kinh tế, cải thiện thu nhập và điều chỉnh cân bằng dân số giữa nông thôn và thành thị..
Những thách thức đang trở thành cơ hội để biến lao động nông thôn trở thành nguồn nhân lực chất lượng cho ngành nông nghiệp và phát triển kinh tế xã hội.
Tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XV diễn ra vào tháng 6 năm 2023, vấn đề cơ hội việc làm cho lao động nông thôn được nhiều đại biểu quan tâm. Từ hiệu quả của công tác đào tạo nghề, dự báo nhu cầu đào tạo, hỗ trợ việc làm cho đến giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo trong tình hình mới…
Theo phân tích của các Đại biểu Quốc hội cũng như các chuyên gia trong lĩnh vực việc làm, năm 2023 tiếp tục đánh dấu nhiều khó khăn của kinh tế toàn cầu. Tỷ lệ lao động giãn việc, nghỉ việc, thậm chí là mất việc tiếp tục gia tăng và Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Theo thống kê lực lượng lao động đang làm việc ở trong nước có tăng so với các quý trước và so với cùng kỳ năm trước nhưng thị trường lao động việc làm vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức. Nguyên nhân chủ yếu do các doanh nghiệp thiếu đơn hàng sản xuất; tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động tăng so với quý trước nhưng giảm so với cùng kỳ năm trước; tình trạng lao động buộc nghỉ giãn việc, thôi việc, mất việc ở các doanh nghiệp vẫn tiếp diễn và có xu hướng chuyển dịch sang khu vực phi chính thức cho thấy thị trường lao động việc làm phục hồi nhưng chưa thực sự bền vững… Số lượng người lao động phải giãn việc, nghỉ việc, thậm chí bị thôi việc rất lớn.
Đáng chú ý, trong 4 tháng đầu năm 2023, trong số 280.000 lao động bị thôi việc, mất việc làm, số lao động chưa qua đào tạo bị thôi việc, mất việc nhiều nhất với tỷ lệ 68%. Lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất thôi việc, mất việc nhiều nhất (49% số lao động nộp hồ sơ bảo hiểm thất nghiệp là từ các khu công nghiệp, khu chế xuất). Điều đó cho thấy đã đến lúc cần nhìn nhận nghiêm túc vấn đề đào tạo lao động chất lượng cao. Thị trường lao động tiếp tục đặt ra những thách thức, tuy nhiên, nhiều chuyên gia phân tích đây cũng là cơ hội để tái cơ cấu lao động, đặc biệt là lao động nông thôn đối với vấn đề xây dựng nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn và cho toàn xã hội. Thực tiễn ở các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ sở đào tạo và các đơn vị dịch vụ cung ứng, sử dụng lao động đang có những dịch chuyển để biến thách thức thành cơ hội.
Tiến sĩ Vũ Trọng Bình, Cục trưởng Cục Việc làm (Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội) chia sẻ: Chúng ta phải xác định, đối với ngành nông nghiệp, người lao động phần lớn lao động không có quan hệ lao động, đồng nghĩa là không có bảo hiểm xã hội, không có chế độ hưu trí, không có bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động….
Theo thống kê, lực lượng lao động hiện nay của cả nước có 52,1 triệu người, lao động làm công hưởng lương khoảng 25 triệu lao động. Tuy nhiên chỉ có 17,489 triệu lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Như vậy, có khoảng 8 triệu lao động làm công hưởng lương không hoặc chưa tham gia bảo hiểm xã hội và gần 35 triệu lao động (chiếm 2/3 lực lượng cả nước) chưa được nắm thông tin, pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể, trực tiếp điều chỉnh đối với các nhóm lao động này, làm cơ sở hoạch định và triển khai các chính sách hỗ trợ, ví dụ như các gói an sinh xã hội trong giai đoạn COVID-19. Số lượng rất lớn nông dân không có quan hệ lao động cùng với thực tế về một nền nông nghiệp chưa hiện đại đã khiến chúng ta chưa thể xây dựng đội ngũ lao động có quan hệ lao động chuyên nghiệp trong nông nghiệp, nông thôn.
Trong khi đó ông Đồng Văn Ngọc, Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Cơ điện Hà Nội cũng phân tích: Thời gian vừa qua, đặc biệt năm 2023 đã có những tác động rất lớn đến thị trường lao động việc làm trong nước và quốc tế. Đặc biệt ở Việt Nam chúng ta số lượng người lao động phải giãn việc, nghỉ việc, thậm chí bị thôi việc diễn ra phổ biến. Thách thức ở chỗ lực lượng lao động của chúng ta chủ yếu là lao động nông thôn, tham gia nhiều vào các doanh nghiệp FDI khi chưa được tổ chức đào tạo bài bản. Số lượng lớn lao động phổ thông này vào các doanh nghiệp FDI khi tuổi đời còn trẻ và chưa qua đào tạo. Họ cống hiến cả tuổi thanh xuân cho các doanh nghiệp FDI nhưng khi gặp biến cố về việc làm rất khó để có thể chuyển đổi sang các ngành nghề khác, dễ dàng bị thất nghiệp. Chính vì vậy chúng ta cần phải thay đổi.
Và tôi cho rằng thách thức hiện nay cũng chính là cơ hội để làm điều đó. Nhà nước cần có chính sách, cơ sở đào tạo thay đổi tư duy, tiêu chuẩn thị trường lao động phải được nâng cao để chúng ta có thể xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là đối với lĩnh vực nông nghiệp. Nói cách khác bài toán đặt ra là chúng ta phải làm thế nào để đào tạo và dịch chuyển số lượng lao động chưa được đào tạo bài bản sang việc làm mới. Làm được như thế chúng ta sẽ có một thị trường lao động rất dồi dào.
Cũng tại một diễn đàn về thị trường lao động do Báo Nông nghiệp Việt Nam tổ chức, ông Nguyễn Văn Huế, Giám đốc Trung tâm dịch vụ việc làm Bắc Giang phân tích: Thị trường lao động việc làm vốn dĩ luôn biến đổi, trong bối cảnh hiện nay người lao động bị mất việc làm khi chuyển sang việc làm mới phải mất rất nhiều thời gian mới có thể đáp ứng được đòi hỏi của công việc.
Họ cần có kỹ năng năng nghề mới để quay trở lại thị trường lao động và việc tổ chức kết nối của các đơn vị làm dịch vụ gặp rất nhiều khó khăn. Giải pháp trước mắt là chúng tôi có một số định hướng, hỗ trợ người lao động tìm công việc phù hợp nhất, còn về lâu dài, để người lao động có công việc bền vững, mức thu nhập ổn định phải có thời gian và nhiều chính sách hỗ trợ.
Ví dụ thị trường lao động việc làm ở tỉnh Bắc Giang. Người lao động khu vực nông thôn về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động phổ thông tuy nhiên đối với một số doanh nghiệp đòi hỏi, yêu cầu lao động có tay nghề cao cần phải có thời gian đảm bảo, kinh nghiệm công việc thì cần phải có chính sách đào tạo để đáp ứng tiêu chuẩn đó.
Liên quan đến vấn đề này, trả lời chất vấn của các đại biểu tại Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XV, Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội Đào Ngọc Dung đã đưa ra nhiều giải pháp, trong đó Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội sẽ phối hợp Bộ NN-PTNT nhằm đổi mới cơ cấu và phương thức đào tạo nghề lao động nông thôn với phương châm chỉ đào tạo khi dự báo được công việc và đào tạo khi công việc có hiệu quả cao hơn, thu nhập cao hơn. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật để phát triển đồng bộ các yếu tố của thị trường lao động, nâng cao hiệu quả hoạt động của các định chế trung gian của thị trường, phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động.
Có thể nhìn nhận thị trường lao động việc làm đang đặt ra nhiều thách thức, tuy nhiên khó khăn cũng chính là cơ hội để nâng cao chất lượng lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm tạo ra những bước đột phá về kinh tế xã hội đất nước.
Hiện tại, chất lượng nguồn nhân lực được xem là rào cản và thách thức nhất cho phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn không chỉ ở Việt Nam mà nhiều nước khác trên thế giới. Các nghiên cứu ở các nước đã chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực và sự phát triển của ngành nông nghiệp. Lao động không qua đào tạo hoặc trình độ đào tạo thấp hạn chế việc áp dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật; tiếp cận thị trường; sử dụng vốn đầu tư; cũng như cơ hội chuyển đổi sang các ngành nghề có thu nhập cao hơn. Nhiều ý kiến cho rằng phần lớn lao động nông thôn mặc dù có việc làm và làm nhiều giờ trong tuần, nhưng vẫn khó khăn trong cải thiện thu nhập, mà lực cản chính do chất lượng lao động thấp.
Các kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra lao động không qua đào tạo có xu hướng dựa nhiều hơn vào các khoản cứu trợ của nhà nước, bán tài sản, vật nuôi, đất đai và đặc biệt dễ bị tổn thương, tác động tiêu cực bởi các rủi ro đến từ thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp. Phân tích số liệu thống kê chỉ ra rằng, mỗi năm học ở trường tăng thêm thì thu nhập của lao động tăng thêm 7,76%. Những lao động có bằng trung cấp nghề hoặc cao đẳng thì thu nhập cao hơn hẳn những người không có bằng cấp nghề.
Bàn về vấn đề đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đào tạo nguồn nhân lực cho ngành nông nghiệp, Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan cho biết: Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Bộ đã thiết kế phát triển khu vực kinh tế nông thôn gắn với nâng cao kiến thức, kỹ năng cho lao động nông nghiệp, lao động phi nông nghiệp là yêu cầu bức thiết.
Bộ NN-PTNT và Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội đã thiết kế hệ thống chương trình nhưng nhu cầu lao động xuất phát từ nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương của từng cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh. Bộ trưởng Lê Minh Hoan khẳng định: Đào tạo nghề nông thôn không chỉ là đào tạo nghề nông, mà đã chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp. Tuy nhiên, kinh tế nông nghiệp là một chuỗi ngành hàng và những giá trị tích hợp, cần thêm những ngành nghề khác.
Cụ thể, căn cứ vào nhu cầu của địa phương, Bộ NN-PTNT sẽ tập trung đào tạo theo nhu cầu gắn với sự phát triển của địa phương. Bộ cũng đã đề ra kế hoạch tái cấu trúc đào tạo nghệ nông thôn gắn với sự phát triển nông thôn. Thực hiện Nghị quyết 19, một trong những giải pháp đầu tiên là nâng cao năng lực của người nông dân, gắn liền với kiến thức và kỹ năng làm nghề nông cũng như những ngành nghề phi nông nghiệp, với tư duy của nền kinh tế nông nghiệp chứ không chỉ là tư duy sản xuất nông nghiệp. Do vậy cần đào tạo theo chuỗi ngành hàng từ sản xuất, đến bảo quản, thu hoạch, chế biến, thương mại điện tử, mỗi khâu có ngành nghề kèm theo…. Bộ NN-PTNT đã xây dựng 5 vùng nguyên liệu và đào tạo theo đúng quy trình để phát huy tất cả nguồn nhân lực phục vụ cho vùng nguyên liệu..
Dường như đã có sự dịch chuyển đáng kể để biến lao động nông thôn trở thành nguồn nhân lực xây dựng ngành nông nghiệp nói riêng và kinh tế xã hội đất nước nói chung. Để chuẩn bị nhân lực cho triển khai thực hiện Nghị quyết 19-NQ/TW của Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về Nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Ban cán sự đảng Bộ NN-PTNT đã ban hành Nghị quyết số 37 ngày 08/5/2023 về “Đổi mới, nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững ngành NN-PTNT đến năm 2025 và định hướng tới năm 2030”. Mục tiêu đến năm 2030, bình quân mỗi năm đào tạo nghề cho khoảng 1,5 triệu lao động nông thôn trên cả nước, tỷ lệ lao động nông nghiệp được đào tạo đạt trên 70%… Đưa tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ từ sơ cấp trở lên của nhóm ngành nông, lâm nghiệp – thủy sản từ 4,6% năm 2020 lên 10% vào năm 2030…
Đối với công tác đào tạo, trên nguyên tắc “chỉ đào tạo khi dự báo được công việc” của Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội, các cơ sở đào tạo nghề hiện cũng đang tích cực thay đổi tư duy, xây dựng các mô hình liên kết đào tạo mới mẻ, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp.
“Chúng ta đang đẩy mạnh nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp thông minh, muốn thực hiện được mục tiêu này thì nguồn nhân lực là quan trọng nhất. Công tác đào tạo của trường chúng tôi luôn xác định làm thế nào để các bạn trẻ đam mê, tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp chính là trách nhiệm của cơ sở đào tạo. Các sản phẩm nông sản của chúng ta rất tốt, có thể xuất khẩu ra thị trường thế giới nhưng làm thế nào để đào tạo chuỗi logictis, đưa tự động hóa vào trong chuỗi đó cũng cần nhận thức, cách thức mới trong công tác đào tạo. Phân tích nhu cầu doanh nghiệp, mời doanh nghiệp cùng tham gia đào tạo sẽ phần nào giải quyết được bài toán đó”, ông Đồng Văn Ngọc, Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Cơ điện Hà Nội tiếp tục chia sẻ.
Thời điểm trước năm 2013, Trường Cao đẳng Cơ điện Hà Nội (HCEM) cũng giống như phần lớn cơ sở đào tạo nguồn nhân lực khác, ngập ngụa trong muôn vàn khó khăn. Cơ sở vật chất, hạ tầng thiếu thốn, tuyển sinh khó khăn, nguồn thu thấp, số doanh nghiệp, đối tác liên kết chỉ đếm trên đầu ngón tay, phần nhiều trong số đó lại là quy mô nhỏ, hộ gia đình… Vậy mà bây giờ HCEM là cơ sở đào tạo hàng đầu, đặc biệt là đào tạo nhân lực chất lượng cao. Tính đến năm 2023, Trường đã xây dựng cơ chế hợp tác với gần 160 doanh nghiệp lớn nhỏ trong và ngoài nước, là đối tác liên kết của những tập đoàn tầm cỡ quốc tế như: Tập đoàn Hanwha, Tập đoàn Out – Sourcing, Công ty DENSO Việt Nam, Công ty Trường Hải Auto, Công ty TOYOTA Việt Nam, AT Group, Công ty Festo, Hiệp hội Tiêu chuẩn nhà thông minh KNX… Mỗi năm, Trường tuyển sinh khoảng 1.200 sinh viên hệ cao đẳng, 400 hệ trung cấp; đào tạo, liên kết đào tạo hơn 5.000 lao động. Ông Ngọc nói đó là thành quả của việc thay đổi tư duy.
Còn Bộ trưởng Lê Minh Hoan cho rằng, công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực NN-PTNT là tiền đề quan trọng để nâng cao trình độ sản xuất, năng suất lao động, năng lực cạnh tranh và bảo đảm phát triển bền vững của ngành, vừa là xu hướng tất yếu và mang lại giá trị lâu dài cho các trường, cơ sở đào tạo, doanh nghiệp nông nghiệp. Việc hợp tác giữa các trường đại học và doanh nghiệp về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực NN-PTNT không chỉ giới hạn về đào tạo nguồn nhân lực, cung cấp thị trường… mà phải hợp tác để xây dựng được thương hiệu nhà trường, chia sẻ trách nhiệm xã hội; đồng thời hợp tác phải tiến tới tư duy thị trường doanh nghiệp để các sản phẩm đào tạo đến được với thị trường, doanh nghiệp.
Thực tế thời gian gần đây, số lượng người lựa chọn học nghề có chiều hướng gia tăng nhưng số lượng lao động được đào tạo nghề chưa đáp ứng nhu cầu. Mặc dù, mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp bước đầu đã được rà soát, sắp xếp nhưng vẫn còn nhiều bất cập.
Trả lời chất vấn của đại biểu liên quan đến giáo dục nghề nghiệp, Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung cho biết, thời gian qua Chính phủ đã hoàn thiện cơ cấu, hệ thống giáo dục nghề nghiệp. Quốc hội đã thông qua 3 luật liên quan đến lĩnh vực này: Luật Giáo dục Đại học, Luật Giáo dục và Luật dạy nghề. Quy mô tuyển sinh hiện nay khoảng 2 triệu sinh viên, học sinh học nghề, so với cách đây 5 năm bình quân mỗi năm chỉ khoảng 500 nghìn học sinh, sinh viên, cho thấy có sự tiến bộ rõ rệt.
Bộ trưởng cũng thẳng thắng nhìn nhận, giáo dục nghề nghiệp cả về quy mô và chất lượng còn nhiều điều cần quan tâm, đổi mới và cải thiện về chính sách pháp luật, chế độ chính sách ưu đãi cho học sinh vào trường nghề chưa nhiều. Bộ trưởng nhấn mạnh, muốn đổi mới giáo dục nghề nghiệp cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, làm thay đổi nhận thức trong xã hội.
Về các giải pháp thu hút học sinh học nghề, trong đó điều quan trọng nhất là có sự ủng hộ của các bậc cha mẹ, bản thân người học; ra trường có việc làm, có thu nhập ổn định, có cuộc sống tương đối tốt; sau khi ra trường có nhu cầu học lên được học liên thông. Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội sẽ thiết kế chính sách cho sinh viên học nghề theo hướng này.
Thời gian qua sau khi có Nghị quyết của Trung ương, nhất là Nghị quyết 19, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 06 về phát triển thị trường lao động theo hướng linh hoạt, hiện đại, đồng bộ, hiệu quả và bền vững. Nghị quyết đã nêu 9 nhóm giải pháp căn bản từ việc tuyên truyền, nhận thức, xây dựng chính sách, việc triển khai tổ chức thực hiện…
Về công tác tuyển sinh, công tác giáo dục nghề nghiệp, Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội Đào Ngọc Dung cho biết công tác này đã có nhiều bước tiến. Bộ đã có báo cáo với Ban Bí thư về vấn đề này, trong đó có báo cáo, đề cập đến quy mô, chất lượng đào tạo, từ đó cho thấy bên cạnh những bước tiến bộ, nhưng quy hoạch mạng lưới đào tạo còn nhiều bất cập.
Bộ trưởng cho biết, hiện nay, cùng trên một địa bàn có nhiều trường nghề khác nhau, có nhiều ngành nghề khác nhau, trùng nhau, dẫn đến số học viên không đáp ứng được yêu cầu, khó tìm việc sau khi đào tạo xong. Chính vì vậy, thời gian tới, đào tạo cần gắn với nhu cầu thị trường, cần làm quyết liệt hơn việc dự báo cung cầu, chỉ tiến hành đào tạo khi xác định được nhu cầu. Bên cạnh đó, các trường cần liên kết, hợp tác chặt chẽ, đặt hàng được các doanh nghiệp, để học viên đào tạo ra có việc làm, có nghề nghiệp ổn định.
Hiện nay có tình trạng chồng chéo, trùng lắp trong ngành nghề đào tạo, các trường nghề về bản đang thực hiện theo tinh thần, việc đào tạo được tự chủ, trừ một số ngành nghề đào tạo chất lượng cao, nhà nước đặt hàng thì đào tạo theo yêu cầu. Tình trạng chung của các trường nghề là tuyển sinh được thì đào tạo, chưa thực sự gắn với nhu cầu thị trường.
“Chính vì vậy 63 tỉnh thành đã cùng với Bộ tiến hành quy hoạch lại mạng lưới giáo dục nghề nghiệp, sáp nhập các trường trung cấp, các trung tâm giáo dục nghề nghiệp, một trường cao đẳng ở một địa phương có thể dạy nhiều hệ khác nhau, nhiều chương trình khác nhau theo đúng tinh thần Nghị quyết 19 của Trung ương. Cùng với đó, hệ thống trường nghề của các bộ, ngành, đoàn thể cũng được sắp xếp lại theo tinh thần quy về một đầu mối, theo đúng Chiến lược giáo dục nghề nghiệp đến năm 2030 tầm nhìn năm 2045, để tránh trùng lặp về chức năng, về ngành nghề đào tạo như hiện nay”, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung khẳng định.
Trọng Toàn
Xem thêm: Tin tức thời sự Hà Nội mới nhất tại báo ĐSPL.
Hastags: #Biến #thách #thức #thành #cơ #hội #cho #lao #động #nông #thôn
Nguồn bài viết: nongnghiep.vn
Hgvt.edu.vn trang tổng hợp kiến thức giáo dục, công nghệ, đời sống. Bạn có thể tự đánh giá nội dung và trở thành cộng tác viên của chúng tôi
Leave a Reply